Hôm qua còn là Trạng nguyên lang, hôm nay đã thành tù nhân dưới thềm điện.
Thôi Tuần kháng chỉ ngay tại chỗ, khiến công chúa Tề An mất hết thể diện. Vì tội kháng chỉ, hắn bị tống vào ngục thất của Đại Lý Tự. Ngục tốt rất khâm phục Trạng nguyên lang vì dám đối đầu với công chúa, liền lén khuyên nhủ: “Công chúa Đại Chu xưa nay kiêu ngạo, người mà nàng ta để mắt tới, đừng nói chưa thành thân, ngay cả đã thành thân rồi, thê tử cũng có thể bị ban chết. Chuyện này cũng không phải chưa từng có tiền lệ. Lang quân tuổi trẻ tài cao, hà tất phải chịu tội này? Chi bằng thuận theo công chúa Tề An, làm phò mã của nàng. Huống chi, công chúa Tề An rất có khả năng sẽ là bệ hạ tương lai, đến lúc đó lang quân chẳng những là phò mã mà còn có thể là hoàng phu, chung tay cai quản thiên hạ.”
Thôi Tuần lắc đầu: “Đa tạ ý tốt của ngài, nhưng phò mã hay hoàng phu, ta đều không màng. Kiếp này, ta chỉ muốn cùng một người nắm tay đến đầu bạc.”
Ngục tốt thở dài: “Nhưng với tính tình của công chúa Tề An, e rằng vị tiểu nương tử mà lang quân muốn nắm tay cả đời ấy, chưa chắc có thể giữ được mạng.”
Ánh mắt Thôi Tuần chợt lạnh đi. Quả thực, Đại Chu phong tục cởi mở, địa vị công chúa cực kỳ tôn quý. Nam nhân được công chúa để mắt tới, có người bị phụ thân, huynh trưởng truy đuổi ngay trên đường đón dâu, có người thì phải chứng kiến cảnh thê tử kết tóc bị ban chết, nhưng tuyệt nhiên không ai có thể thoát khỏi tay các nàng. Nếu xét theo lẽ ấy, chỉ e Lý Doanh cũng đang ở trong vòng nguy hiểm.
Hắn bất giác sốt ruột, trầm ngâm giây lát rồi hỏi ngục tốt: “Có thể… để ta gặp một người không?”
–
Chuyện tân khoa Trạng nguyên bị tống vào đại lao vì kháng chỉ, không chịu làm phò mã gây chấn động cả triều đường. Thế nhưng, phần lớn quan viên không ai dám lên tiếng can gián. Một là, đây chẳng qua chỉ là chuyện phong hoa tuyết nguyệt. Công chúa Tề An mỹ mạo như hoa, tuy tính tình cao ngạo nhưng vẫn là một giai nhân, có lẽ Trạng nguyên lang chỉ là đang bướng bỉnh nhất thời, chờ khi bình tâm lại rồi, sớm muộn gì cũng sẽ thuận theo thôi. Hai là, Nữ đế đã ngoài tám mươi, sức khỏe ngày càng sa sút, e rằng chẳng còn sống được mấy tháng nữa. Công chúa Tề An rất có thể sẽ là vị quân chủ kế nhiệm, ai lại dại dột đi đắc tội nàng vào lúc này?
Chỉ có Cảnh Thành vương Lý Trưng là sốt ruột đến mức xoay vòng vòng. Hắn tìm đến thầy dạy của mình là Lư Hoài, bức xúc nói: “Trạng nguyên lang là rường cột nước nhà, sao có thể vì chút lòng riêng mà bắt giam người ta chứ? Nếu Trạng nguyên lang một ngày không chịu khuất phục, chẳng lẽ công chúa Tề An cũng một ngày không chịu thả người? Đúng là nực cười!”
Lư Hoài điềm tĩnh hỏi: “Điện hạ muốn cứu Trạng nguyên lang?”
Lý Trưng không hề do dự, gật đầu nói: “Trạng nguyên lang do chính ta đề bạt. Bất kể phẩm hạnh hay tài biện luận cũng đều đứng đầu, là bậc nhân tài hiếm có. Nếu được mài giũa thêm, tương lai ắt đảm đương nổi vị trí Tể phụ. Ta không đành lòng thấy y bị hủy hoại chỉ vì tư tâm của Tề An.”
Hắn ngừng lại giây lát, rồi tha thiết cầu xin Lư Hoài: “Thầy, người mà bệ hạ tín nhiệm nhất chính là thầy. Người có thể ra mặt cầu tình cho Trạng nguyên lang, thỉnh bệ hạ ngăn cản Tề An không?”
Lư Hoài nhìn gương mặt tuấn tú như ngọc của hắn, lắc đầu.
Lý Trưng sững người: “Chẳng phải thầy rất tâm đầu ý hợp với Trạng nguyên lang sao? Cớ gì lại không muốn cứu y?”
Lư Hoài điềm nhiên nói: “Không phải ta không muốn cứu y.” Hắn dừng lại một lát, rồi tiếp: “Mà là ta muốn điện hạ tự mình đứng ra.”
“Ta ư?” Lý Trưng buột miệng: “Nhưng bệ hạ chán ghét ta đến thế, sao có thể chấp thuận lời thỉnh cầu của ta?”
“Điện hạ, không thể vì bệ hạ chán ghét mình mà cái gì cũng không dám làm.” Lư Hoài nhắc nhở: “Trạng nguyên lang là do chính tay điện hạ chọn ra, nếu ngay cả cứu y mà điện hạ cũng không dám, về sau, bất cứ ai cũng có thể khinh thường người. Điện hạ muốn như thế thật sao?”
“Ai cũng có thể xem thường…” Lý Trưng đau khổ cúi đầu: “Không, ta không muốn… Phụ thân ta có sai lầm của ông ấy, nhưng ta thì có lỗi gì? Gánh chịu sự chán ghét của bệ hạ vẫn chưa đủ, chẳng lẽ còn phải gánh cả sự khinh rẻ của mọi người hay sao? Ta không muốn.”
Hắn nắm chặt tay, ánh mắt dần trở nên kiên định: “Thầy nói đúng, Trạng nguyên lang là nhân tài do ta tuyển chọn, hơn nữa, nếu không phải ta điểm y làm Trạng nguyên, y sẽ không cưỡi ngựa dạo ngự nhai, lại càng không bị Tề An để mắt tới. Về công hay tư, ta đều có trách nhiệm phải cứu y.”
Sau khi hạ quyết tâm, Lý Trưng lập tức cầu kiến Nữ đế, yêu cầu thả Thôi Tuần. Nữ đế nhìn hắn, thản nhiên hỏi: “Ngươi và y có giao tình riêng?”
Lý Trưng lắc đầu: “Không hề, chỉ từng gặp trong điện thí và yến tiệc ở khúc Giang, ngoài ra chưa từng có dịp trò chuyện riêng.”
“Nếu thế thì tại sao ngươi vẫn tận tâm tận lực cứu y?”
Lý Trưng gạt bỏ mọi sợ hãi, nhìn thẳng Nữ đế, trầm giọng nói: “Bệ hạ, thiên hạ đại sự, xét đến cùng cũng chỉ xoay quanh một chữ “Lý”. Bùi Hành đã có hôn ước, Tề An không nên cưỡng ép, lại càng không không nên vì tức giận mà giam giữ y. Nếu đến cả Trạng nguyên của Đại Chu cũng có thể bị đối xử như vậy, thì lòng của sĩ tử thiên hạ chẳng phải đều sẽ lạnh lẽo lắm sao? Chuyện này, Tề An không có lý, vì thế, dù ta không có giao tình gì với Bùi Hành, nhưng cũng nguyện ra tay cứu giúp chỉ vì chữ “Lý” ấy.”
Nữ đế chăm chú nhìn Lý Trưng, nhìn khuôn mặt mang vài phần tương tự phụ thân hắn. Một lúc lâu sau, bà mới chậm rãi khép mắt, nói: “Lúc Tề An thỉnh chỉ, trẫm không hề hay biết Bùi Hành đã có hôn ước. Nhưng thánh chỉ đã ban ra, quân vô hí ngôn. Y công khai kháng chỉ, chung quy cũng phải trả giá. Ngươi không cần nói thêm gì nữa.”
Nữ đế thẳng thừng cự tuyệt thỉnh cầu của Lý Trưng. Thế nhưng, hắn vẫn không bỏ cuộc, mỗi ngày quỳ trước điện Thần Long, chỉ để cầu xin cho một người mà bản thân không hề quen biết. Nghĩa cử ấy khiến triều thần không khỏi nhìn hắn bằng con mắt khác.
–
Ngục thất Đại Lý Tự.
Thôi Tuần lặng lẽ ngồi trong buồng giam. Có lẽ do Lư Hoài âm thầm căn dặn nên không ai làm khó hắn. Chỉ là căn phòng này, vừa vặn chính là nơi đã giam giữ hắn ở kiếp trước. Hắn vẫn còn thấy những vết máu khô đọng lại trên nền đá xanh, tàn tích của những trận tra tấn hắn từng chịu đựng. Thôi Tuần cụp mắt, bình thản chờ đợi. Cho đến khi bên ngoài vang lên một giọng nói quen thuộc, xen lẫn tiếng khóc thút thít: “Thập Thất lang!”
Lý Doanh thực không thể tưởng tượng nổi, vì sao mới chỉ qua một giấc ngủ, mà Thôi Tuần đã từ Trạng nguyên lang biến thành kẻ tù tội. Nàng kinh hãi đến mức chẳng biết làm gì, lập tức sai tỳ nữ hồi báo về Dương Châu, nhắn Đỗ Tư mã cùng Bùi Thứ sử mau chóng đến cứu người, còn bản thân thì thu dọn hành trang, chuẩn bị đến Đại Lý Tự gặp Thôi Tuần.
Nàng gỡ xuống toàn bộ trâm vàng, vòng tay bằng vàng, nghĩ rằng những thứ này hẳn là đáng giá, chỉ cần đưa cho ngục tốt thì sẽ được gặp mặt hắn chăng…
Nhưng chưa đợi nàng đến ngục Đại Lý Tự, ngục tốt đã cho người truyền lời, bảo nàng mau chóng đến đó, Thôi Tuần muốn gặp nàng.
Hơn nữa, ngục tốt ấy không nhận một đồng bạc nào của nàng, chỉ nói rằng y kính phục cốt cách của Trạng nguyên lang nên mới mạo hiểm làm việc này. Lý Doanh cảm động, liền nhét toàn bộ vòng tay, trâm vàng vào tay y, sau đó vội vàng chạy đến ngục giam.
Càng tiến gần đến nơi ấy, trong lòng nàng càng dâng lên nỗi bất an khó tả, như thể bản thân đã từng đặt chân đến nơi này, và từng trải qua những ký ức không mấy tốt đẹp.
Nhưng dù có thấy sợ đến đâu, nàng vẫn phải cứu Thôi Tuần. Nàng cưỡng ép mình trấn tĩnh, bước chân nhanh hơn.
Đến khi trông thấy hắn qua song sắt, mũi nàng cay xè, nước mắt liên tục trào ra. Nàng bám chặt song sắt, nức nở hỏi: “Thập Thất lang, sao chàng lại thành ra thế này?”
Thôi Tuần chỉ lắc đầu: “Minh Nguyệt Châu, nàng đừng lo vì sao ta rơi vào tình cảnh này. Hiện giờ, chỉ có nàng mới có thể cứu ta.”
Lý Doanh hỏi ngay: “Ta phải làm sao để cứu chàng đây?”
“Hãy vào cung Đại Minh, gặp một người.”
“Ai?”
“Bệ hạ.”
Lý Doanh hít sâu một hơi: “Bệ hạ? Nhưng người yêu thương công chúa Tề An lắm mà, liệu có đồng ý gặp không? Hơn nữa, ngay cả Cảnh Thành vương cầu xin, người cũng thẳng thừng từ chối, ta đến cầu xin liệu có ích gì? Chi bằng đợi a gia tới, rồi hẵng bàn bạc sau.”
“Không, nhất định có tác dụng.” Hắn nói: “Minh Nguyệt Châu, nàng hãy tin ta.”
Lý Doanh ngẩn ra trong chốc lát, nhưng nếu Thôi Tuần bảo nàng tin hắn, nàng sẽ tin hắn. Nàng liền gật đầu: “Được, ta sẽ xin gặp bệ hạ. Nhưng người thân phận cao quý, lẽ nào lại chịu gặp ta?”
Thôi Tuần suy nghĩ giây lát, liền cầm giấy bút, viết vội mấy hàng chữ lên tờ giấy trắng, rồi lấy từ trong người ra một chiếc túi hương cũ kỹ, bên trong có nút tóc, cẩn thận gấp tờ giấy nhét vào. Hắn đưa túi hương cho nàng, trầm giọng nói: “Nàng hãy tìm Thượng thư Tả Bộc xạ Lư Hoài, nhờ ông ấy giao cái này đến tay bệ hạ. Khi đó, người sẽ triệu kiến nàng.”
Lý Doanh nghe vậy, trong lòng mờ mịt như lạc vào sương khói, nhưng vẫn nhận lấy túi hương, gật đầu: “Được, ta đi tìm Lư tướng công ngay đây.”
“Chờ đã.” Thôi Tuần đột nhiên gọi nàng lại, hắn hơi lúng túng, ấp úng một hồi nhưng rốt cuộc vẫn nói ra: “Minh Nguyệt Châu, sau khi mọi chuyện xong xuôi, nhớ bảo bệ hạ trả lại túi hương này cho ta.”
Lý Doanh dở khóc dở cười: “Giờ là lúc nào rồi, chàng còn lo lắng chuyện ấy?”
“Nhớ trả lại ta…“ Hắn nghiêm túc nói.
Nàng nhét túi hương vào trong tay áo, không còn cách nào khác ngoài đáp: “Được, để ta bảo người trả lại chàng.”
–
Lý Doanh làm theo lời dặn, tìm đến Lư Hoài và nhờ hắn chuyển túi hương đến tay Nữ đế. Thực lòng mà nói, nàng chẳng dám ôm hy vọng gì xa vời, bởi lẽ Nữ đế vô cùng sủng ái công chúa Tề An, sao có thể chỉ vì một chiếc túi hương mà tha cho Thôi Tuần? Nhưng không ngờ, vừa đưa túi hương vào cung Đại Minh, Lư Hoài đã báo lại rằng: Nữ đế muốn gặp nàng.
Lý Doanh có phần ngạc nhiên, nhưng cũng không dám trì hoãn, lập tức theo Lư Hoài tiến cung. Nàng chưa từng đặt chân vào cung Đại Minh, nhưng không hiểu vì sao, từng mái đình, từng tán cây nơi đây lại khiến nàng có cảm giác quen thuộc lạ thường. Trong lúc vô thức ngắm nhìn khắp nơi, nàng đã đến trước điện Thần Long. Lư Hoài không đi tiếp, chỉ bảo nàng một mình tiến vào trong.
Lý Doanh thấp thỏm bước vào điện, sau lưng, nội thị lặng lẽ khép chặt cửa điện.
Từ xa, nàng đã thấy một bóng dáng gầy guộc, già nua đang tựa nghiêng trên trường kỷ. Từ lâu đã nghe nói Nữ đế thân thể yếu nhược, nửa năm nay hiếm khi lâm triều, nay nhìn tận mắt, quả nhiên không phải lời đồn.
Lý Doanh quỳ xuống dập đầu: “Thần nữ tham kiến bệ hạ.”
Nữ đế cất giọng run rẩy, phất nhẹ tay với nàng: “Lại đây.”
Lý Doanh hơi sững lại, giọng Nữ đế cũng chậm rãi hơn: “Đừng sợ, lại đây.”
Nàng mới đứng dậy, lòng hồi hộp tiến từng bước về phía Nữ đế. Khi đến trước giường, nàng quỳ xuống, Nữ đế cố gắng ngồi dậy, nhưng thân thể đã già yếu, bàn tay nắm chặt lấy chiếc túi gấm cũng lỏng dần, khiến nó rơi xuống đất. Sợi tóc kết quấn bằng chỉ đỏ cùng mảnh giấy gai trắng cũng theo đó rơi ra.
Lý Doanh cúi đầu, nhìn thấy hàng chữ viết trên giấy: “Kiếp trước kiếp này, chỉ kết tóc cùng một người. Đèn tắt mười sáu năm, một vầng trăng sáng hiện.”
Nàng chưa kịp hiểu hết ý nghĩa của nó, đang mơ hồ suy nghĩ thì Nữ đế nói: “Ngẩng đầu lên.”
Lý Doanh ngước nhìn Nữ đế. Ban đầu, nàng vốn rất e ngại vị đế vương cao cao tại thượng này, nhưng khi trông thấy dung nhan của bà, nỗi sợ bỗng chốc tan biến, thay vào đó lại dâng lên một cảm giác thân thuộc khó tả. Đôi mắt Nữ đế đã dần trở nên mờ đục, bà run rẩy vươn tay, khẽ chạm vào gương mặt nàng, động tác dịu dàng tựa như đang v.uốt ve chính con gái ruột thịt của mình. Bà khẽ hỏi: “Nhũ danh của con là gì?”
“Minh Nguyệt Châu.”
Vừa dứt lời, Lý Doanh trông thấy rõ ràng một giọt lệ từ khóe mắt đã vẩn đục của Nữ đế, chầm chậm lăn xuống. Giọng bà run run: “Con sinh năm nào?”
“Năm Nguyên niên Vĩnh An.” *
*Tức là năm Vĩnh An thứ nhất.
“Năm Nguyên niên Vĩnh An…“ Nữ đế lẩm bẩm, ngón tay bà lướt qua từng đường nét trên khuôn mặt nàng, từ đôi mắt, sống mũi, rồi nước mắt bỗng nhiên trào ra như mưa: “Tốt… tốt…“
Lý Doanh không hiểu ý tứ trong lời nói của bà, nàng lo lắng hỏi: “Bệ hạ…“
“Đứng dậy.” Nữ đế nói, “Để trẫm ôm con một cái.”
Phản ứng của Nữ đế khiến Lý Doanh có chút khó hiểu, nhưng nàng vẫn làm theo, ngồi xuống mép giường, để mặc Nữ đế ôm lấy mình. Giây phút ấy, không hiểu vì sao, sự nôn nao trong lòng hoàn toàn biến mất. Chỉ còn lại cảm giác như một đứa trẻ đang nép vào lòng mẫu thân.
Nàng cảm nhận rõ ràng từng giọt nước mắt nóng hổi rơi xuống lưng mình. Nữ đế thì thào: “Minh Nguyệt Châu, Minh Nguyệt Châu của a nương, cuối cùng con cũng đã về rồi…”