Tháng ba tiết xuân ấm áp, sĩ tử khắp nơi tề tựu về Trường An, mở ra kỳ thi Tiến sĩ thường niên. Có người tá túc tại khách xá, có kẻ dứt khoát lưu lại các kỹ viện ở phường Bình Khang. Người đến miếu Văn Xương Đế Quân khấn cầu bảng vàng đề danh, kẻ đến bái tượng Khổng Tử, mong được Khổng Thánh nhân phù hộ. Khắp các tiệm lớn nhỏ trong thành, mỗi mẻ bánh Trạng nguyên vừa ra lò đều lập tức bị mua sạch. Lại có không ít sĩ tử cầm tập thơ của mình, cất công đến bái kiến quyền quý, hy vọng tìm được cơ hội tiến thân.
Thôi Tuần không đến bất cứ đâu, ngày ngày chỉ chuyên tâm ôn tập trong khách xá. Nơi này thực ra cách phủ đệ của hắn ở kiếp trước không xa, song hắn chưa một lần ghé qua.
Bá phụ hắn, Thôi Tụng Thanh, sau khi cáo quan vì tuổi cao, liền lưu lại Trường An, dùng những năm tháng cuối đời để dìu dắt sĩ tử hàn môn, tìm kiếm nhân tài cho Đại Chu. Nhờ được ông đích thân dạy dỗ, cháu trai của Nghiêm Tam nương là Hổ Nô đã thi đỗ Tiến sĩ, nay đã ra ngoài nhậm chức. Nghe nói Hổ Nô thanh liêm chính trực, một lòng vì dân, quả thật không phụ tấm danh thiếp mà Thôi Tuần đã trao cho cậu năm ấy.
Phủ đệ của Thôi Tuần vẫn được Thôi Tụng Thanh chăm nom chu toàn, không khác gì lúc trước. Không biết mỗi lần đến đó, trong lòng ông có dấy lên chút hối hận nào không? Nếu năm đó ông chịu tin hắn sớm hơn, thì nhân tài ưu tú nhất của Thôi thị đất Bác Lăng đã chẳng đến nỗi uổng mạng như vậy.
Bằng hữu của Thôi Tuần từng kéo hắn ra ngoài du ngoạn một lần, ngang qua Thôi phủ thì trông thấy Hà Thập Tam cùng Thịnh A Man dẫn theo gia quyến Thiên Uy quân đến đó. Thịnh A Man nay đã chín chắn hơn nhiều, cửa tiệm mở ra làm ăn cũng rất khấm khá, danh vọng trong thành Trường An cũng không nhỏ. Hà Thập Tam hiện là tướng quân trấn giữ một phương, lần này dẫn quân hồi kinh bàn giao công vụ. Trong sân, một đội quân sĩ khoác giáp Minh Quang đang quét dọn, còn Thịnh A Man thì tỉ mỉ lau từng lớp bụi bám trên cánh cửa sơn son.
Từ xa, Thôi Tuần nghe thấy Hà Thập Tam hỏi nàng: “Thịnh a tỷ, tỷ nói xem a huynh giờ sống có ổn không?”
Thịnh A Man cắn môi, kiên định gật đầu: “Huynh ấy đã cứu bách tính sáu châu, Thập điện Diêm Vương cũng chẳng nỡ làm khó đâu. Bây giờ, huynh ấy nhất định đang sống rất tốt.”
Hà Thập Tam ngồi xuống, nhặt một viên đá cuội dưới đất. Trong mắt cậu thoáng qua tia u ám, ngón tay siết chặt viên đá, lẩm bẩm: “Chỉ cần ta giữ vững biên cương, không để giặc Hồ xâm phạm, thì a huynh chắc chắn sẽ sống tốt.”
Cậu nhớ lại khoảnh khắc khi người ấy lâm chung, thân thể gầy trơ xương, gần như chỉ còn da bọc lấy bộ cốt gầy gò, vậy mà vẫn dốc cạn tâm lực, gắng gượng giữ lại một hơi tàn để nói cho cậu nghe về những điều cần lưu ý ở biên quan. Chỉ đến khi đã dặn dò xong, người ấy mới siết chặt túi hương trong tay, trút đi hơi thở cuối cùng. Người ấy chưa từng hổ thẹn với bộ giáp Minh Quang trên người. Hà Thập Tam đã thề rằng, cậu nhất định kế thừa vinh quang của a huynh và Thiên Uy quân, và cậu thực sự đã làm được.
Hà Thập Tam nắm viên đá cuội trong tay, mắt cụp xuống: “A huynh, chuyện trước đây, mong huynh thứ lỗi cho đệ. Chuyện sau này, đệ nhất định sẽ không khiến huynh thất vọng.”
–
Thôi Tuần đưa mắt nhìn thoáng qua Thôi phủ rồi rời đi. Cuộc đời của Thôi Vọng Thư đã khép lại, những người thân thuộc năm xưa dù tưởng nhớ hắn nhưng vẫn tiếp tục sống tốt, thế là đủ để an ủi lòng hắn.
Hắn trở về khách xá, đóng cửa không ra ngoài, tiếp tục ôn tập. Dù tin vào mười mấy năm khổ học của bản thân, hắn vẫn hiểu ngoài kia còn có người giỏi hơn cả mình, không thể trông mong bảng vàng từ trên trời rơi xuống.
Đến ngày thi đình, người chủ trì khoa cử năm nay chính là Cảnh Thành vương Lý Trưng. Thân phận của Lý Trưng, có thể nói là vô cùng khó xử.
Bởi vì hắn là cốt nhục duy nhất còn sót lại của Long Hưng Đế.
Năm đó, khi Long Hưng Đế dần mất đi quyền lực, để lấy lòng Thái hậu, ngài buộc phải đưa A Sử Na Ngột Đóa rời khỏi cung, quay lại sủng ái Hoàng hậu cùng những phi tần khác. Chính trong khoảng thời gian ấy, Hoàng hậu hoài thai long chủng. Đến khi Long Hưng Đế bị bức tử, đế hiệu bị phế bỏ, Thái hậu cho phép các phi tần của ngài được tự do trở về quê nhà tái giá. Nhưng có lẽ thân phận quá đặc thù, nên chẳng ai rời đi.
Thái hậu liền sắp xếp cho họ ở lại cung Thang Tuyền, mọi chi phí sinh hoạt đều như trước. Lúc này bà chỉ là một người mẹ đau lòng vì đứa con trai đã khuất, nên dùng hết sức để bảo toàn cuộc sống của những nữ tử đáng thương ấy.
Chính tại cung Thang Tuyền, Hoàng hậu hạ sinh di cốt duy nhất của Long Hưng đế. Chỉ là, có lẽ vì sợ hãi Thái hậu, nàng và các phi tần khác đều giữ kín chuyện này, không hề truyền ra ngoài mà lặng lẽ nuôi dưỡng đứa trẻ. Mãi đến khi hài nhi tròn hai tuổi, vị Nữ đế đương triều mới hay tin.
Ngày ấy, Nữ đế tóc bạc phơ, chống gậy, sắc mặt giận dữ, ra lệnh cho Kim Ngô Vệ lập tức trảm đứa trẻ. Nhưng Hoàng hậu ôm chặt con trong lòng, nhất quyết không buông. Các phi tần khác cũng đồng loạt lấy thân che chở cho đứa bé, không để Kim Ngô Vệ lại gần. Hoàng hậu nước mắt lưng tròng, giọng khàn đặc vì khóc: “Bệ hạ đã tha mạng cho cốt nhục của Thẩm Khuyết, cớ gì lại không chịu dung tha cho chính tôn nhi của mình?”
Chúng phi tần quỳ rạp xuống, không ngừng dập đầu van xin. Nữ đế tức giận quát lớn: “Các ngươi có biết phụ thân của đứa trẻ này đã gây ra tội nghiệt gì không? Chính hắn là kẻ chủ mưu! Hắn không xứng có con!”
Dường như bao căm phẫn và thất vọng chất chứa với Long Hưng Đế đều trút hết lên đứa trẻ hai tuổi kia. Thế nhưng, nhóm nữ nhân đáng thương ấy không ai phản bác, họ chỉ khóc. Tất cả dùng thân mình che chắn cho đứa bé, Hoàng hậu nức nở nghẹn ngào: “Thần thiếp biết, trượng phu thần thiếp đã sai… nhưng con của thần thiếp, nó vô tội… Nếu thằng bé không được sống tiếp, thần thiếp… cũng chẳng thiết sống nữa…“
Không chỉ nàng, mà tất cả phi tần khác cũng không thể sống tiếp. Thực ra, nếu không phải vì đứa trẻ này, từ khi Long Hưng đế bị ban chết, họ đã chẳng còn tha thiết với nhân gian.
Nữ đế nhìn những nữ nhân đang khóc than, lòng thở dài. Năm đó, khi chọn hậu phi cho Long Hưng đế, bà đã cố tình chọn những người ôn hòa, biết an phận, mong rằng hậu cung sẽ không dấy lên tranh đoạt. Quả thực, hậu cung không có tranh chấp, nhưng cũng chính sự yên bình ấy đã hủy hoại cuộc đời của những nữ nhân vẫn luôn xem trượng phu như lẽ sống này.
Bà nhìn xuống đứa bé hai tuổi đang được Hoàng hậu ôm chặt trong lòng. Đứa trẻ vẫn chưa hiểu chuyện gì xảy ra, chỉ mở to đôi mắt, tò mò quan sát mẫu thân và các di mẫu đang khóc đến rối loạn. Dáng dấp của nó vừa giống Long Hưng Đế, lại có đôi nét hao hao với Lý Doanh.
Một niệm thành ma, một niệm cũng có thể thành Phật.
Nữ đế nghiến chặt răng, cuối cùng vẫn dẫn theo Kim Ngô Vệ, phất tay áo bỏ đi.
Chỉ có cung nữ trong điện Thần Long biết rằng, đêm hôm ấy, Nữ đế đã thức trắng suốt đêm, lệ ướt đẫm gối.
–
Đứa con rớt lại của Long Hưng Đế cứ thế run rẩy trưởng thành. Dù là cốt nhục duy nhất còn tồn tại trên đời của Nữ đế, nhưng bà vẫn chẳng hề quan tâm. Chính mẫu thân hắn là người đã đặt tên cho hắn: Lý Trưng. Chữ “Trưng” mang ý nghĩa sáng tỏ, hy vọng hắn có thể phân biệt đúng sai, không đi theo vết xe đổ của phụ thân, vì quyền lực mà đánh mất lương tâm, cuối cùng phạm phải lỗi lầm không thể cứu vãn.
Nữ đế không mời danh sư chỉ dạy Lý Trưng, vậy nên các phi tần trong cung Thang Tuyền tự mình dạy dỗ hắn. Dù phụ thân hắn có bị phế bỏ đế hiệu thì hắn vẫn là cháu của cả Thái Xương Đế lẫn Nữ đế, vậy mà đến tước hiệu quận vương cũng chẳng có. Năm hắn tròn mười tuổi, có một Ngự sử giỏi phỏng đoán Thánh ý đã dâng mật sớ, thỉnh cầu Nữ đế lập Lý Trưng làm Hoàng thái tôn.
Trong mật sớ viết rằng: “Hiện nay, triều đình tranh luận không dứt về chuyện lập trữ, hoàng tộc họ Lý và hoàng tộc họ Khương đều như hổ đói rình mồi. Nhưng bất luận là bên nào cũng không phải cốt nhục của bệ hạ. Đối với họ Khương, bệ hạ là cô mẫu, từ xưa đến nay chưa từng có tiền lệ lập miếu thờ cho cô mẫu. Hơn nữa, triều Đại Chu đã lập quốc trăm năm, gốc rễ của hoàng tộc họ Lý đã ăn sâu, nếu truyền ngôi cho họ Khương, e rằng tông thất không phục, thiên hạ tất loạn.
Mặt khác, đối với hoàng tộc họ Lý, bệ hạ chính là cái gai trong mắt, là người đã cướp đi thiên hạ của bọn họ. Một khi bệ hạ băng hà, tất sẽ bị thanh trừng ngay tức khắc. Đến khi đó, không chỉ quốc sách bị xóa bỏ, mà họ Khương cũng khó tránh khỏi kiếp nạn diệt tộc. Để không bị diệt tộc, họ Khương tất cũng phải nổi binh tạo phản, vẫn là một trận đại loạn.
Vì thế, xét về thực tế, lập Lý Trưng – người có cả huyết thống họ Lý lẫn họ Khương – là lựa chọn tối ưu nhất.”
Thế nhưng, Nữ đế đọc xong liền nổi giận đùng đùng, quẳng tấu chương xuống đất, trách mắng Ngự sử là kẻ chỉ biết xu nịnh, sau đó biếm ông ta khỏi kinh sư. Từ đó về sau, không ai dám nhắc đến chuyện lập Lý Trưng nữa.
Thế nhưng, dù không ai dám đề cập, vẫn có người xem Lý Trưng như cái đinh trong thịt. Không lâu sau đó, cung Thang Tuyền bỗng dưng phát hỏa. Nếu không nhờ Hoàng hậu liều chết cứu giúp, e rằng hắn đã táng thân trong biển lửa.
Dẫu vậy, trận hỏa hoạn quá lớn đã thiêu đen cả Vong Ưu Đình, nơi mang bút tích do chính Thái Xương Đế đề chữ, do chính Lý Doanh ban tên.
Nữ đế vội vã chạy đến, bàn tay khẽ vuốt lên trụ đình đã cháy xém. Bà trầm mặc hồi lâu, rồi vẫy tay gọi thiếu niên đang sợ hãi nép sau lưng Hoàng hậu: “Lại đây.”
Lý Trưng giờ đã cao đến ngang vai Nữ đế, cậu rụt rè bước đến trước mặt bà, ngẩng đầu nhìn người thân cận nhất của mình trên cõi đời này, khẽ gọi một tiếng: “Bệ… bệ hạ.”
Cậu thậm chí còn chẳng dám gọi một tiếng tổ mẫu.
Nữ đế lặng lẽ nhìn cậu. Bà vươn tay ra, Hoàng hậu và các phi tần vừa thoát khỏi cửa tử đồng loạt quỳ xuống, thống thiết cầu xin: “Bệ hạ!”
Nữ đế chẳng màng đến họ, chỉ đưa tay lau vết ám khói còn vương trên gương mặt nhỏ nhắn của Lý Trưng. Qua đôi mắt e dè của cậu, nàng tựa hồ trông thấy bóng dáng của rất nhiều người, chồng, con trai, và cả con gái của bà.
Bà lặng im hồi lâu, sau đó chậm rãi nói: “Con à, từ hôm nay, con chính là Cảnh Thành vương của Đại Chu.”
–
Từ ngày ấy, Lý Trưng được phong vương. Tựa hồ để cảnh cáo những kẻ đang âm thầm manh động, Nữ đế phong Lư Hoài làm thầy dạy của hắn, đồng thời để hắn tham gia chính vụ. Cùng với thời gian, tài năng của hắn dần lộ rõ. Hắn không giống phụ thân, kẻ từng vì quyền thế mà không từ thủ đoạn, ngược lại, hắn giống cô cô của mình hơn, thuần hậu, lương thiện, chí nhân chí hiếu. Đối với kẻ sĩ, hắn khiêm nhường lễ độ, mà trước những lời chế nhạo cũng không hề tỏ ra thấp kém. Lư Hoài từng tâu với Nữ đế rằng, Lý Trưng mang phong thái của một bậc nhân quân.
Song, Nữ đế chỉ coi như chưa từng nghe thấy. Người bà yêu quý nhất bây giờ chính là công chúa Tề An. Công chúa Tề An xuất thân từ dòng tộc Khương thị, năm nay vừa tròn mười tám, dung mạo có vài phần giống với Lý Doanh. Nữ đế yêu thương nàng hết mực, khắp thiên hạ đều đồn rằng, có lẽ bà sẽ lập công chúa Tề An làm trữ quân.
Tề An tính tình kiêu ngạo, trái lại, Lý Trưng lại ôn hòa nhã nhặn hơn rất nhiều. Giữa hai người thường xảy ra xung đột, song lần nào hắn cũng là kẻ nhường bước. Hắn mang tội nghiệt của phụ thân, chẳng được Nữ đế yêu thương. Dẫu là đích tôn duy nhất của Thái Xương Đế và Nữ đế, là người thừa kế danh chính ngôn thuận nhất, nhưng kẻ đặt kỳ vọng vào hắn vẫn ít xa so với công chúa Tề An.
Giữa tình thế gian nan ấy, Lý Trưng được giao trọng trách chủ trì khoa cử Tiến sĩ năm nay. Nữ đế tuổi đã ngoài bát tuần, thân thể không còn được như xưa, chẳng thể tham gia điện thí, mọi việc đều để hắn toàn quyền quyết định. Hắn cũng chẳng phụ kỳ vọng, cẩn trọng chu toàn, nghiêm minh công chính. Tại điện Tử Thần, hắn triệu tập các danh nho, đối chiếu lần lượt từ thi từ ca phú, kinh sử tử tập cho đến sách vấn thời vụ, cuối cùng tuyển ra Trạng nguyên là Bùi Thập Thất lang đến từ Dương Châu, Bùi Hành.
–
Gió xuân thoả chí ngựa phi. Xem hoa cho hết trọn ngày Trường An. [1]
[1] Hai câu trích từ bài “Đăng khoa hậu” (Sau khi thi đỗ) của tác giả Mạnh Giao. Bản dịch của Nguyen gia Dinh (thivien)
Các tân khoa Tiến sĩ được ban ân mặc triều phục màu đỏ thẫm, thắt đai vàng, đầu cài hoa, khoác gấm lụa, thúc ngựa phi nhanh qua đại lộ Chu Tước. Dân chúng Trường An ùn ùn kéo đến dọc con phố, chỉ để ngắm phong thái tân khoa. Các tiểu nương tử trước hết đều tìm kiếm vị Thám hoa, bởi từ trước đến nay, Thám hoa thường là người có dung mạo đẹp trai nhất. Đến khi nhìn thấy, quả nhiên Thám hoa diện mạo anh tuấn bất phàm, danh xứng với thực. Sau đó, ánh mắt họ mới chuyển sang Trạng nguyên.
Chỉ thấy thiếu niên Trạng nguyên chân mày như vẽ, hàng mi tựa như lông quạ, triều phục đỏ như lửa, đôi mắt đào hoa sóng sánh ánh nước, chỉ một thoáng nhìn cũng đủ khiến người ta trầm luân.
Dáng vẻ này, dù đem so với Liên Hoa Lang nức tiếng mười mấy năm trước, cũng chẳng hề kém cạnh.
Những tiểu nương mắt mày e ấp, lần lượt ném lên người thiếu niên những đóa hoa trong tay, đỗ quyên, hải đường, mẫu đơn, cánh hoa rơi xuống như mưa, trải đầy lối đi của đoàn Tiến sĩ.
Giữa khung cảnh náo nhiệt, Trạng nguyên bỗng nghe thấy một thanh âm giòn giã nhưng quen thuộc cất lên: “Này!”
Hắn ngẩn người, ngước đầu theo tiếng gọi. Trên lầu hai của một quán trà ven đường, một thiếu nữ đang tựa người bên khung cửa sổ gỗ, tươi cười gọi hắn.
Lý Doanh? Nàng đến Trường An rồi sao?
Lý Doanh cầm trong tay một đóa tường vi đỏ đang nở rộ, lắc nhẹ rồi ném về phía Thôi Tuần.
Hắn đưa tay đón lấy, đóa tường vi này trông rất giống với bông hoa hắn từng tặng nàng ở kiếp trước.
Thôi Tuần nâng đóa hoa lên, đưa tới chóp mũi ngửi thử, đoạn nhướn mày, nhoẻn cười với thiếu nữ trên lầu quán.
Nụ cười ấy quá mức diễm lệ, đến mức lu mờ cả sắc thắm của đóa hoa tường vi trong tay.
Bên trong quán trà, một thiếu nữ cẩm y hoa lệ cũng vì nụ cười ấy mà thất thần. Nàng ta dõi mắt theo thiếu niên Trạng nguyên rạng rỡ như ráng chiều, rồi ghé tai dặn dò tỳ nữ đứng cạnh mấy câu.